Các bác sĩ tại Trung tâm dinh dưỡng lâm sàng ( Bệnh viện Bạch Mai) đã gợi ý một chế độ ăn hiệu quả, dễ áp dụng dành cho người bệnh tăng huyết áp dựa trên chỉ số BMI và các số đo về mặt thể chất.
Khám sàng lọc bệnh tim mạch và bệnh tăng huyết áp cho người cao t.uổi.
Các nguyên tắc ăn, nghỉ cho người bệnh tăng huyết áp
Theo các chuyên gia, để cơ thể của người bệnh tăng huyết áp được khỏe mạnh, người bệnh cần duy trì cân nặng trong giới hạn cho phép, gồm: chỉ số BMI nằm trong khoảng từ 18,5 tới 24,9; vòng bụng nhỏ hơn 90cm ở nam và nhỏ hơn 80 cm ở nữ.
Nếu người bệnh bị thừa cân, béo phì, cần giảm cân về mức khuyến cáo và chú ý không hút t.huốc l.á hoặc thuốc lào, hạn chế uống rượu bia; tránh các lo âu, căng thẳng, sống tích cực, nghỉ ngơi hợp lý.
Chế độ tập luyện cũng rất quan trọng, người bệnh chú ý tăng cường hoạt động thể lực ít nhất 30 phút mỗi ngày, đồng thời, thường xuyên đo kiểm tra huyết áp để phát hiện sớm bệnh.
Nguyên tắc dinh dưỡng cho người tăng huyết áp
Chế độ dinh dưỡng tốt dành cho người tăng huyết áp là chế độ giúp giảm gánh nặng cho tim, giảm giữ muối, cân bằng kali để kiểm soát huyết áp và giảm sử dụng thuốc, hạn chế tối đa được các biến chứng của tăng huyết áp, ví dụ: suy tim, đột quỵ.
Bên cạnh đó, chế độ dinh dưỡng này phải đảm bảo đủ năng lượng, có tỷ lệ các chất sinh nhiệt, vitamin, muối khoáng hợp lý theo lứa t.uổi; tăng cường rau xanh, hoa quả, ngũ cốc nguyên hạt, đậu đỗ, cá, thịt gia cầm, sữa ít béo và các sản phẩm từ sữa ít béo; hạn chế chất béo, muối, đồ ngọt, rượu, bia, t.huốc l.á và các chất kích thích; cung cấp từ 1,5 lít – 2 lít nước trong 1 ngày
Chế độ dinh dưỡng và các nguyên tắc dinh dưỡng sẽ được tùy biến phụ thuộc vào lứa t.uổi thể trạng, mức độ hoạt động, các bệnh lý đi kèm khác, ví dụ: đái tháo đường, rối loạn mỡ m.áu, gout….
Những chất nào nên có trong chế độ ăn dành cho người tăng huyết áp?
Lipid (chất béo)
Người bệnh tăng huyết áp nên giảm lượng chất béo theo tỷ lệ: giảm 1/3 acid béo bão hòa, 2/3 acid béo không bão hòa. Acid béo không bão hòa thường có mặt trong dầu thực vật, dầu oliu, dầu mè, dầu lạc và một số loại hạt đậu nành, macca, óc chó, các loại cá gồm cá hồi, các trích, cá mòi… Acid béo không bão hòa giúp giảm nguy cơ tim mạch khi sử dụng hợp lý, vì vậy chỉ cần giảm ít. Trong khi đó, acid béo bão hòa có nhiều trong mỡ động vật, phủ tạng động vật, các món chiên, rán, nướng; là thủ phạm gây tăng nguy cơ mắc bệnh mạch vành, vì vậy cần giảm nhiều hơn.
Protid ( chất đạm)
Người bệnh tăng huyết áp cần lượng đạm trong khẩu phần ăn tương đương với người bình thường, chiếm khoảng 15 – 20% tổng năng lượng khẩu phần ăn trong ngày. Họ nên chọn các loại thịt nạc (thịt trắng), cá nạc, đậu đỗ và hạn chế thịt có nhiều mỡ, thịt đỏ. Bên cạnh đó, người bệnh nên sử dụng thêm sữa ít béo hoặc sữa tách béo và các sản phẩm từ sữa tách béo ví dụ: sữa chua, phô mai, để cung cấp thêm vitamin D và canxi cho cơ thể.
Glucid (chất bột đường)
Lượng chất bột đường này sẽ chiếm từ 60 – 70% tổng năng lượng khẩu phần trong ngày. Người bệnh tăng huyết áp nên chọn các glucid phức hợp từ gạo, khoai củ, yến mạch; tránh dùng nhiều các thực phẩm chứa nhiều đường đơn và hàm lượng đường cao, ví dụ: bánh kẹo ngọt, nước ngọt, mứt, vì có nguy cơ gây rối loạn mỡ m.áu, rối loạn đường huyết….
Muối
Muối trong chế độ ăn có thể tạo ra từ hai nguồn chính: gia vị trong thức ăn và nguồn có sẵn trong thực phẩm. Vì thế, người bệnh cần hạn chế lượng muối có trong gia vị, ít hơn 4g/ngày. Lượng muối này có thể thay thế bằng nước mắm, mì chính, hạt nêm, xì dầu. Người bệnh cũng cần hạn chế sử dụng những thực phẩm nhiều muối, ví dụ: dưa muối, cà muối, chân giò muối, xúc xích, mỳ đồ, đồ hộp…
Vitamin và muối khoáng
Chế độ dinh dưỡng cho người bệnh tăng huyết áp phải đảm bảo cung cấp đủ vitamin và muối khoáng, kali, bằng cách sử dụng khoảng 400 – 600g rau xanh trong 1 ngày. Các loại rau người bệnh có thể ăn gồm: rau họ cải, rau muống, rau lang, bầu, bí, su su, tăng cường món luộc, hấp, hạn chế các món xào, rán, nướng.
Các loại hoa quả duy trì khoảng 300g – 400g/ngày, gồm: bưởi, cam, chuối, ổi, táo, lê. Người bệnh nên sử dụng quả nguyên múi, nguyên miếng, hạn chế ép nước.
Cùng với một chế độ luyện tập hợp lý
Rèn luyện thể lực qua các hoạt động thể dục thể thao là một phần không thể thiếu trong quá trình thay đổi lối sống, điều trị bệnh tăng huyết áp. Tùy vào từng giai đoạn mà người bệnh có chế độ luyện tập phù hợp nhằm kiểm soát mức huyết áp của bản thân.
Theo khuyến cáo của Hiệp hội Tim mạch châu Âu (ESC), người bệnh tăng huyết áp nên tập các bài tập, môn thể thao có mức độ trung bình, ví dụ: aerobic, đạp xe, bơi lội (không tập lặn), đi bộ trong hơn 30 phút/lần tập/ngày và nên tập 5 – 7 ngày/tuần.
Các chuyên gia cũng khuyến cáo, người bệnh nên kiểm tra huyết áp và nhịp tim trước và sau khi tập để điều chỉnh cường độ tập phù hợp.
Theo viettimes
Béo phì gia tăng khắp thế giới
Nghiên cứu gần đây cho thấy tỷ lệ người bị béo phì ở Trung Quốc đã tăng gấp 3 lần trong một thập niên qua, nhưng con số này vẫn còn thua xa Mỹ.
T.rẻ e.m “nặng ký” ở Trung Quốc. Ảnh: Asia Nikkei
Nhóm nghiên cứu tại Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Trung Quốc đã sử dụng dữ liệu của một cuộc khảo sát để ước tính tỷ lệ béo phì và béo phì vòng bụng ở những người trưởng thành của nước này. Kết quả cho thấy, béo phì đã “tấn công” 14% nam giới và 14,1% phụ nữ trưởng thành. Trong khi đó, tỷ lệ béo phì vòng bụng ở nam là 31,5% và nữ là 32,4%. Theo định nghĩa của các nhà nghiên cứu, người được xem là béo phì khi có chỉ số khối cơ thể (BMI) từ 28 trở lên và béo phì vòng bụng khi sở hữu số đo vòng eo ít nhất 90cm đối với nam, ít nhất 85cm đối với nữ.
Năm ngoái, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đưa ra báo cáo cho thấy số người bị béo phì trên toàn cầu đã tăng gấp 3 lần kể từ năm 1975. Tính trên phạm vi thế giới, thì tỷ lệ béo phì tại Trung Quốc thật ra vẫn còn thấp hơn các nước phương Tây. Tỷ lệ béo phì và béo phì vòng bụng ở người Mỹ trưởng thành lần lượt là 35,4% và 61,5%. Còn theo khảo sát của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), tỷ lệ người Mỹ từ 15 t.uổi trở lên bị béo phì lên tới 38,2%. Kết quả này đưa Mỹ trở thành quốc gia có tỷ lệ béo phì cao nhất thế giới, xếp trước Mexico, New Zealand, Hungary, Úc và Anh. Trong danh sách những quốc gia “nhẹ cân” nhất, Nhật Bản đứng đầu do chỉ có 3,7% dân số béo phì, kế đến là Ấn Độ, Hàn Quốc, Indonesia và Trung Quốc. OECD dự báo đến năm 2030, 47% dân Mỹ sẽ bị béo phì.
Hồi đầu tháng này, một nhóm cựu tướng lĩnh quân đội Mỹ cũng đã công bố báo cáo chỉ ra rằng khoảng 70% người dân bang Virginia trong độ t.uổi 17-24 không trúng tuyển quân sự do thiếu trình độ học vấn, có t.iền án, sử dụng chất kích thích hoặc không đạt yêu cầu về y tế. Đáng nói, béo phì là một trong những rào cản sức khỏe phổ biến nhất, khi có đến 31% người dân xứ cờ hoa trong nhóm t.uổi này bị loại do BMI của họ quá cao.
Ở Anh, tình trạng béo phì đang ở mức báo động, kéo theo những lo sợ về đại dịch tiểu đường. Số lượng người bị béo phì tại đây hiện đã lên tới 13 triệu trường hợp (chiếm xấp xỉ 30% dân số nước này), tăng gần gấp đôi trong vòng 20 năm qua.
Năm 1997, xứ sương mù chỉ có khoảng 6,96 triệu người từ 16 t.uổi trở lên sống chung với béo phì, theo phân tích của tổ chức từ thiện Bệnh Tiểu đường Anh. Rachel Batterham, cố vấn đặc biệt về béo phì tại Đại học Y Hoàng gia Anh, cho rằng béo phì không chỉ kéo giảm chất lượng cuộc sống của người bệnh, mà còn dẫn đến những căn bệnh như tiểu đường tuýp 2, bệnh tim mạch, ung thư và c.hết sớm. Bệnh nhân béo phì được cho có nguy cơ bị tiểu đường tuýp 2 lên tới 80-85%. Hiện có 3,7 triệu người Anh bị tiểu đường. Hơn phân nửa số ca tiểu đường tuýp 2 có thể phòng tránh được nếu đẩy lùi thành công “quốc nạn” béo phì.
HẠNH NGUYÊN
Theo Telegraph, US News/baocantho